Sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính với các triệu chứng sốt, phát ban, chảy nước mũi, ho, mắt đỏ… nếu không có miễn dịch phòng bệnh có thể sẽ gây thành dịch. Đối tượng dễ mắc bệnh sởi thường là trẻ nhỏ và người có miễn dịch kém.
Bệnh sởi do virus gây ra. Đây là một loại virus ARN thuộc chi Morbilivirus nằm trong họ Paramyxoviridae, virus hình cầu, đường kính 120 – 250 nm, sức chịu đựng yếu, dễ bị tiêu diệt với các thuốc khử trùng thông thường, ánh sáng mặt trời và sức nóng.
– Kháng nguyên ngưng kết hồng cầu (Hemagglutinin).
– Kháng nguyên tan hồng cầu (Hemolysin).
Khi virus vào trong cơ thể bệnh nhân sẽ kích thích sinh kháng thể. Kháng thể xuất hiện từ ngày thứ 2 – 3 sau khi mọc ban và tồn tại lâu dài. Miễn dịch trong sởi là miễn dịch bền vững.
Bệnh lây qua đường hô hấp; Lây trực tiếp khi bệnh nhân ho, hắt hơi, nói chuyện; Lây gián tiếp ít gặp vì virus sởi dễ bị diệt ở ngoại cảnh.
Theo ghi nhận có đến 90% những người tiếp xúc với bệnh nhân sẽ bị lây sởi nếu chưa tiêm ngừa. Virus sởi có ở mũi và cổ họng của bệnh nhân, nên có thể đã lây bệnh cho người khác 4 ngày trước khi vết đỏ xuất hiện.
Khi bệnh nhân bị ho, hắt xì... những giọt nước nhỏ xíu có chứa siêu vi sẽ bắn ra không khí và người khác có thể hít vào hoặc những giọt này có thể rơi xuống một nơi nào đó như mặt bàn, điện thoại… Khi ta sờ vào những nơi này và đưa tay lên mũi hay miệng, người lành sẽ bị lây bệnh.
Một khi siêu vi sởi vào cơ thể bệnh nhân, chúng thường mọc vào trong những tế bào đằng sau cổ họng và phổi. Sau đó bệnh sẽ lan khắp cơ thể, kể cả hệ hô hấp và da. Trẻ em và đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi rất dễ mắc bệnh sởi do hệ miễn dịch yếu và giảm dần kháng thể bảo vệ từ mẹ sau khi sinh ra.
Việc tiêm chủng không đầy đủ có thể khiến dịch sởi bùng phát bất cứ lúc nào. Tỷ lệ tiêm chủng bao phủ cần thiết để ngăn chặn sởi lây truyền trong cộng đồng là ít nhất phải đạt 95%.
Bệnh sởi biểu hiện trên lâm sàng thường trải qua 3 giai đoạn:
Thời kỳ ủ bệnh (10 – 12 ngày) là thời gian từ khi trẻ bị nhiễm virus gây bệnh đến khi xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của giai đoạn tiền triệu. Trong giai đoạn này trẻ không biểu hiện triệu chứng gì của bệnh.
2. Giai đoạn tiền triệu chứng
Giai đoạn tiền triệu chứng khoảng 5 – 15 ngày được đặc trưng bởi sốt mức độ nhẹ đến vừa, ho khan, chảy nước mũi, viêm kết mạc mắt. Những triệu chứng này hầu như luôn luôn xảy ra trước khi nội ban xuất hiện.
Nội ban hay hạt Koplik là dấu hiệu chỉ điểm của bệnh. Đó là các hạt trắng, nhỏ như đầu đinh ghim, từ vài nốt đến vài chục, vài trăm nốt mọc ở niêm mạc má (phía trong miệng, ngang răng hàm), xung quanh hạt Koplik niêm mạc má thường có sung huyết. Hạt thường xuất hiện và biến mất nhanh trong vòng 12 đến 24 giờ.
Kết mạc mắt có thể bị viêm đỏ và có dấu hiệu sợ ánh sáng. Người bệnh thường có ho khan, tức ho không có đờm. Đôi khi giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng những triệu chứng nặng nề như sốt cao, co giật hoặc thậm chí viêm phổi.
3. Giai đoạn phát ban
Đây là giai đoạn điển hình nhất của bệnh với triệu chứng phát ban tuần tự trên da. Ban mọc theo thứ tự bắt đầu ngày thứ nhất từ đầu, mặt, cổ, ngày thứ 2 ngực lưng cánh tay, ngày thứ 3 bụng, mông, đùi, chân, khi ban mọc tới chân thì sẽ hết sốt và ban bắt đầu bay. Ban sởi là những ban dạng dát - sẩn hơi nổi lên trên bề mặt da, sờ mịn và không đau, không hoặc ít ngứa, không sinh mủ.
Bệnh sởi chủ yếu là điều trị triệu chứng chăm sóc và nuôi dưỡng. Trẻ mắc bệnh sởi có thể chăm sóc và điều trị tại nhà theo cách sau:
Chế độ dinh dưỡng cho trẻ mắc bệnh sởi
Các mẹ nên chế biến thức ăn khi trẻ mắc bệnh theo khẩu vị yêu thích của trẻ, cần đảm bảo thức ăn mềm, dễ tiêu, nấu chín kỹ và khi ăn nên chia thành nhiều bữa.
Không kiêng khem trong chế độ ăn, để bù kịp thời các chất dinh dưỡng mất do quá trình nhiễm trùng. Không dùng các loại gia vị gây khó tiêu. Trong trường hợp trẻ bị biến chứng tiêu chảy hoặc viêm phổi, cần bổ sung kẽm bằng đường uống.
Trẻ lớn đảm bảo ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, uống nhiều nước, nước ép hoa quả chứa nhiều vitamin A.
Bổ sung vitamin A để dự phòng thiếu vitamin A giúp bảo vệ mắt theo hướng dẫn của bác sĩ. Trong trường hợp thiếu vitamin A lặp lại sau 4 - 6 tuần.
Cần đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất khi có các dấu hiệu sau: